65 năm thành lập Hội Nhãn khoa Việt Nam (1960 – 2025): HÀNH TRÌNH VẺ VANG VÀ TỰ HÀO 

Cách đây tròn 65 năm, ngày 11/11/1960, Hội Nhãn khoa Việt Nam chính thức được thành lập. Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên, Viện trưởng Viện nghiên cứu Mắt hột được bầu là Chủ tịch Hội đầu tiên. Viện Nghiên cứu Mắt hột ngày ấy (tiền thân của Bệnh viện Mắt Trung ương ngày nay) giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và là hạt nhân phát triển ngành Mắt Việt Nam.

Từ Ban Nhãn khoa đầu tiên đến hành trình 65 năm phát triển Hội

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ giao Bộ Y tế tiến hành thành lập Hội Y học Việt Nam. Ngày 15/4/1955, Chính phủ chính thức thành lập Hội Y học Việt Nam gồm 9 ban chuyên môn, trong đó có Ban Nhãn khoa, do Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Mắt hột, làm Trưởng ban.

Ngày 11/11/1960, Hội Nhãn khoa Việt Nam chính thức được thành lập và đi vào hoạt động, là thành viên của Tổng Hội Y học Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên được bầu Phó Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, đồng thời là Chủ tịch Hội Nhãn Khoa Việt Nam.

Hành trình phòng chống mù lòa – niềm tự hào của ngành Mắt Việt Nam

Những năm 1960, bệnh mắt hột ở nước ta nằm trong nhóm nặng nhất thế giới, với tỷ lệ mắc lên tới 80% dân số, trong đó 20% có biến chứng nặng. Dưới sự chỉ đạo của GS. Nguyễn Xuân Nguyên, Hội Nhãn khoa Việt Nam đã xây dựng bản đồ bệnh mắt hột toàn miền Bắc, triển khai các chương trình phòng chống bệnh mắt hột quy mô quốc gia, đồng thời đào tạo mạng lưới cán bộ y tế chuyên ngành từ trung ương đến cơ sở.

Sau gần 7 thập kỷ bền bỉ phòng chống, đầu năm 2025, Việt Nam chính thức công bố thanh toán bệnh mắt hột theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) – thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đến thăm Viện Mắt vào tháng 8/1956 (tiền thân của Viện Nghiên cứu Mắt hột và Bệnh viện Mắt Trung ương): “Các cô, các chú là những người thầy thuốc chữa mắt nên phải có phương pháp dự phòng bệnh mắt hột, phải tích cực chạy chữa cho những người bị đau mắt, đem lại ánh sáng cho nhân dân”.

Đóng góp trong chiến tranh và giai đoạn kiến thiết

Trong giai đoạn 1965 – 1975, giữa khói lửa chiến tranh, Viện Nghiên cứu Mắt hột mỗ lực duy trì nghiên cứu khoa học và khám chữa bệnh mắt cho quân dân, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nhân lực y bác sỹ chi viện cho miền Nam.

Nhiều tấm gương sáng đã lên đường phục vụ chiến trường miền Nam, tiêu biểu trong số đó là bác sỹ, liệt sỹ, anh hùng Đặng Thùy Trâm.

Trong giai đoạn này, ngành Mắt Việt Nam nỗ lực xây dựng mạng lưới chăm sóc mắt cộng đồng, nghiên cứu, ứng dụng điều trị bệnh đục thủy tinh thể và nhiều các bệnh mắt khác trong bối cảnh miền Bắc xây dựng xã hội XHCN và đối phó với các cuộc đánh phá leo thang của đế quốc Mỹ.

Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, Hội Nhãn khoa Việt Nam tiếp tục củng cố lại hệ thống chăm sóc mắt trên phạm vi toàn quốc. Nhiều y bác sỹ từ Viện Mắt được cử vào tiếp quản và xây dựng mạng lưới chăm sóc mắt khu vực phía Nam. Thời kỳ này, dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Hội Nhãn khoa Việt Nam và Viện Mắt, nhiều công trình nghiên cứu, sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong điều trị các bệnh mắt, khắc phục tình trạng thiếu thốn về thuốc men, trang thiết bị nhãn khoa. Ngành Mắt Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nổi bật, gắn liền với tên tuổi của Anh hùng lao động, GS.TS Nguyễn Trọng Nhân – nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, nguyên Viện trưởng Viện Mắt Trung ương, nguyên Chủ tịch Hội Nhãn khoa Việt Nam.

Đổi mới – hội nhập – phát triển

Bước sang thời kỳ đổi mới, dưới sự dẫn dắt của GS.TS Tôn Thị Kim Thanh, Nguyên Viện trưởng Viện Mắt, Chủ tịch Hội Nhãn khoa Việt Nam, ngành Mắt Việt Nam mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ nhãn khoa tiên tiến như phẫu thuật Phaco, ứng dụng laser trong điều trị, đầu tư hệ thống xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh hiện đại….; tổ chức đa dạng trong lĩnh vực đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho cán bộ tuyến dưới, nâng cao chất lượng dịch vụ nhãn khoa đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh mắt của nhân dân. Bên cạnh đó, ngành Mắt Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức trong toàn dân, nâng cao nhận thức cộng đồng trong chăm sóc và bảo vệ đôi mắt; Huy động các nguồn lực xã hội, sự vào cuộc của chính quyền các cấp, góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia về phòng chống mù lòa trong cộng đồng.

Xuyên suốt các hoạt động của ngành Mắt Việt Nam, Hội Nhãn khoa Việt Nam trong vai trò tập hợp, đoàn kết các cơ sở nhãn khoa công lập và dân lập trong công tác phòng chống mù lòa, nỗ lực đưa ngành Nhãn khoa Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới.

Hiện nay, Hội Nhãn khoa Việt Nam có hệ thống hội thành viên và chi hội trực thuộc khắp cả nước, nhiều Câu lạc bộ nhãn khoa chuyên ngành ra đời, mỗi năm tổ chức hàng chục hội nghị, hội thảo khoa học quy mô quốc gia và quốc tế thu hút hàng ngàn y bác sỹ hoạt động trong khu vực công lập và tư nhân, đẩy mạnh nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng mang lại ánh sáng cho hàng triệu người….

Hội Nhãn khoa Việt Nam hiện là thành viên Hội Nhãn khoa các quốc gia Đông Nam Á (AOS), thành viên Hội nhãn khoa khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (APAO), và là thành viên Hội Nhãn khoa Thế giới (ICO), đóng góp vai trò quan trong trong sự phát triển chung của ngành Nhãn khoa thế giới.

Bước vào “Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc, dưới ngọn cờ tập hợp, đoàn kết của Hội Nhãn khoa Việt Nam, ngành Mắt Việt Nam quyết tâm thực hiện mục tiêu “Thị giác 2030 – Quyền được nhìn thấy”, tiếp tục phát triển ngành Mắt Việt Nam theo hướng “Khoa học – Dân tộc – Hiện đại và Nhân văn”.

Xuân Hồng

61 Go top